Phân hóa học, phân khoáng gọi chung là phân vô sinh là những hợp chất ở dạng hóa học chứa một hoặc phổ biến chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng.
ngày nay phân vô sinh dùng cho cây trồng chiếm trên 95% tổng lượng dinh dưỡng. Việc xuất hiện rộng rãi chủng dòng từ phân đơn, phân hẩu lốn, phân đa dinh dưỡng, phân trung lượng, phân vi lượng trên thị trường và việc ghi bằng thuật ngữ công nghệ trên những vỏ bao sản phẩm thường “đánh đố” nông dân.
Phân lân (phân chứa lân được ký hiệu là P)
Phân lân có hai cái là phân lân đột nhiên như Apatit, Phosphorit và phân lân chế tạo công nghiệp (supe lân, lân nung chảy).
Hàm lượng lân thuần chất (lân dễ tiêu cây trồng hấp thụ dễ dàng) được tính dưới dạng P2O5 và được ghi trên bao bì phân bón là tỷ lệ % P2O5. Các dạng phân lân thiên nhiên như Apatit, Phosphorit hàm lượng lân dễ tiêu rất ít nên thường ít được tiêu dùng.
– Phân supe lân (công thức hóa học Ca(H2PO4) H2O được SX theo khoa học axít, hàm lượng lân dễ tiêu P2O5 trong khoảng 15 – 17% và 11 -12% S, phân ở dạng bột màu xám mùi chua dễ hút ẩm, phân với giận dữ chua nên khi bón cần kết hợp mang bón vôi.
– Phân lân nung chảy còn gọi là phosphatcanximagie (FMP), ở nước ta phân được SX đầu tiên ở nhà máy lân Văn Điển (nên cũng gọi là lân Văn Điển).
Phân dễ tan trong axít yếu, tan rẻ trong dịch chua do dễ cây tiết ra, tiêu dùng phải chăng trên phần nhiều các dòng đất đặc thù trên đất chua phèn, đất gò đồi thì hiệu quả lân nung chảy Văn Điển rất cao.
Phân kali (phân đựng kali)
Được ký hiệu là K, hàm lượng kali nguyên chất trong phân được tính dưới dạng K2O và ghi trên vỏ bao tị nạnh tỷ lệ phần trăm K2O.
các mẫu phân kali thông dụng trên thị trường ngày nay là: Kaliclorua (KCl) còn gọi là Muriate of potash, viết tắt trên bao phân bì là MOP đựng 50 – 62% K2O dạng bột màu hồng như muối ớt sở hữu dòng màu trắng như muối dễ hút ẩm, dễ vón cục; là cái phân sinh lý chua bón liên tiếp rộng rãi vụ cần bón thêm vôi hoặc phân nung chảy.
Phân kali sunfat (K2SO4) còn gọi là sunfat of potash, viết tắt trên bao so bì là SOP chứa 45 – 50% K2O và 18% S dạng tinh thể mịn màu trắng ít hút ẩm, ít vón cục, là dòng phân sinh lý chua sử dụng liên tiếp đa dạng vụ sẽ khiến nâng cao độ chua cho đất.
Phân bón trung lượng
Canxi (vôi) công thức hóa học là (CaO) viết tắt là (Ca) thường được ghi trên bao bì tỷ lệ phần trăm CaO hoặc Ca+2.
Canxi mang nhiều trong vôi tôi, vỏ ốc, vỏ sò, san hô, phân lân nung chảy cất 28-30% CaO. Canxi là chất dinh dưỡng của cây, song song cải tạo đất khử độ chua, tăng sức kháng bệnh cho cây trồng.
Magie công thức hóa học là (MgO) viết tắt là (Mg) thường được ghi trên bao phân bì tỷ lệ phần trăm MgO hoặc Mg.
Magie được
SX công nghiệp có đa dạng trong phân lân nung chảy Văn Điển từ 15 – 18%. Magie là chất dinh dưỡng quan trọng trong việc hình thành diệp lục, quang hợp tổng hợp chất dinh dưỡng trong cây.
Silic công thức hóa học (SiO2) viết tắt là (Si) thường được ghi tỷ lệ phần trăm SiO2 trên bao so bì, silic trong phân lân nung chảy Văn Điển chiếm 24-32%, silic có vai trò đặc trưng quan trọng đối có 1 số mẫu cây trồng như lúa, ngô, mía, dứa…
lưu hoàng ký hiệu là (S) thường được ghi tỷ lệ phần trăm S trên bao tị nạnh, S sở hữu trong phổ quát loại phân bón như trong phân supe lân, phân đạm SA, trong những dòng phân hẩu lốn.
Bà con nông dân khi tuyển lựa phân bón sau khi đã chọn nhãn hàng nổi tiếng thì căn cứ vào các chú dẫn về tỷ lệ phần trăm của những chất dinh dưỡng đa lượng, trung lượng, vi lượng được ghi trên vỏ bao của mỗi chất để xác định đúng chủng mẫu mà mình sở hữu nhu cầu.
ko tậu các loại phân ghi hàm lượng dinh dưỡng lập lờ, nhập nhèm, tỷ lệ phần trăm yếu tố dinh dưỡng quá tốt nhằm hạn chế hàng giả, hàng giả.